Ví dụ: Nguyễn Văn A (không có nghề nghiệp ổn định) đã có hành vi trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Văn B có giá trị dưới 2 triệu đồng, do đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và chưa được xóa án tích nên A bị khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra xác định, sau khi trộm cắp tài sản, A đã bán tài sản đó cho Đỗ Văn C với giá 400.000 đồng, số tiền này A đã sử dụng chi tiêu cá nhân hết, không sử dụng vào mục đích bất hợp pháp nào khác. Tài sản A trộm cắp đã được Cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ và trả lại cho anh B và anh B đã nhận lại tài sản, không yêu cầu A phải bồi thường gì thêm. Đỗ Văn C khi mua tài sản trên không biết đây là tài sản do A trộm cắp mà có, do số tiền C bỏ ra để mua không lớn (400.000 đồng) nên không yêu cầu A phải bồi hoàn số tiền trên. Tại phiên tòa, anh Nguyễn Văn B và Đỗ Văn C không yêu cầu A phải bồi thường hay bồi hoàn gì. Vậy có phải áp dụng biện pháp tư pháp, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên truy thu số tiền 400.000 đồng mà bị cáo A có được do bán tài sản trộm cắp để sung vào Ngân sách nhà nước hay không?
Quan điểm thứ nhất: Viện kiểm sát phải đề nghị Hội đồng xét xử tuyên truy thu số tiền 400.000 đồng mà A có được do bán tài sản trộm cắp để sung vào Ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, bởi lẽ: Số tiền 400.000 đồng trên là do A bán tài sản đã trộm cắp được, như vậy đây là tiền do bán những thứ ấy mà có. Trường hợp nếu A chưa sử dụng số tiền trên hoặc mới chỉ sử dụng một phần số tiền trên thì phải tịch thu để trả lại cho Đỗ Văn C, nếu C không yêu cầu nhận lại khoản tiền này thì tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước. Trong vụ án này, A đã sử dụng số tiền trên chi tiêu cá nhân hết, Cơ quan tiến hành tố tụng không thể tịch thu được số tiền này, C cũng không yêu cầu A phải bồi hoàn, như vậy nếu chỉ tuyên hình phạt đối với A mà không truy thu số tiền này thì A đương nhiên được chiếm hữu số tiền trên, dẫn đến việc xử lý vụ án chưa được toàn diện, chưa loại bỏ được điều kiện, mục đích phạm tội của A. Vì vậy cần thiết phải áp dụng biện pháp tư pháp truy thu số tiền 400.000 đồng để sung vào Ngân sách nhà nước.
Quan điểm thứ hai: Viện kiểm sát không đề nghị Hội đồng xét xử tuyên truy thu số tiền 400.000 đồng mà bị cáo A có được do bán tài sản trộm cắp để sung vào Ngân sách nhà nước, bởi lẽ trong vụ án này, bị hại ( Nguyễn Văn B ) và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ( Đỗ Văn C ) không yêu cầu A phải bồi thường hay bồi hoàn gì, thì không đặt vấn đề giải quyết số tiền 400.000 đồng trên vì đây là nghĩa vụ dân sự do các bên đã tự thỏa thuận, Tòa án không áp dụng biện pháp tư pháp truy thu sung vào Ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó vì bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, tài sản không có gì vì vậy nếu Viện kiểm sát đề nghị và Tòa tuyên truy thu số tiền 400.000 đồng mà bị cáo A có được do bán tài sản trộm cắp để sung vào Ngân sách nhà nước thì cũng không có tính khả thi.
Quan điểm tác giả: Đồng tình quan điểm thứ nhất, bởi lẽ số tiền 400.000 đồng là tiền mà A có được do bán tài sản trộm cắp mà có theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự nên cần tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước là phù hợp.
Từ thực tiễn qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hình sự đối với loại tội phạm xâm phạm sở hữu, việc áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự để truy thu sung vào Ngân sách nhà nước của các Cơ quan tiến hành tố tụng còn có sự khác nhau, dẫn đến chưa có sự áp dụng thống nhất trong việc áp dụng biện pháp tư pháp. Mong muốn được tham khảo ý kiến của các Cơ quan có thẩm quyền, Cơ quan cấp trên và đồng chí trong Ngành về vấn đề này để việc giải quyết vụ án được đúng quy định pháp luật.
Từ Sĩ Trần Thuyết - Nguyễn Thị Mỹ Hoa (VKSND Tp. Phan Rang-Tháp Chàm)